BÀI 17: DI LUẬN

bat-quai-tuong-loai

BÀI 17: DI LUẬN

(Bài luận để lại cho hậu thế)

Vạn vật quái số vốn do Dịch, nay đọc sách này, chỉ có lệ ngũ hành sinh khắc; pháp thuật về Tam yếu, Thập ứng, so với Dịch thì không giống nhau, vì sao vậy? Vì chưa có Dịch thư, đã có Dịch lý rồi. Dịch thư ra đời sau Tứ Thánh, còn Dịch lý soạn thuật trước Tứ Thánh. Nhân tâm đều có dịch lý, tức là Dịch vậy.

Phép chiêm bốc, không phải là không dùng quái, Quái tức là Dịch. Ví bằng được Dịch quái hào, xem ở Từ hào quái (Từ hào là lời dạy của hào) mà đoán cát hung, hối lậu rất là linh diệu chưa trải qua dùng Dịch. Lại xem ngũ vật của quái số (ngũ vật là ngụ ý vào các vật) ở thiên Bát quái thuộc vạn vật (trang 17), chỉ dùng Nội quái, mà chẳng dùng ngoại quái. Sao vậy? Vì sự khỉ quái là thuật khỉ quái đại khái bàn chung, còn Thập ứng lại là bí quyết trao truyền. Ví như chiêm Quan Mai hôm nay chiếm được quẻ Cách, biết được có thiếu nữ bẻ trộm bông và bị thương ở bắp vế, rồi ngày hôm sau cũng Quan Mai, cũng được quẻ Cách, rồi cũng bảo thiếu nữ bẻ bông; như thế có thể được sao?

Lại như chiêm Mẫu đơn, toán biết được Mẫu đơn bị ngựa dẫm nát, rồi hôm sau cũng toán Mẫu đơn, cũng bảo bị ngựa dẫm nát được sao? Không! Ắt phải suy tường cái lý.

Lại nữa, như quẻ Địa Phong Thăng là triệu không được ăn uống gì, mà biết có người tới mời. Như vậy, nếu không nhờ ngoại quái thì không thể toán được

Thể Dụng

Phàm chiếm thành quẻ rồi, phải vạch ra ba trùng là: Bổn quái, Hổ quái và Biến quái. Rồi ở Bổn quái phân ra Thể Dụng, như vậy là một Thể và một Dụng rồi dùng ngũ hành để biện lý sinh khắc tỵ hòa. Chỉ có Dụng quái cần thiết nhất, lại xem Hổ quái, Biến quái cũng là Dụng, ấy là nội quái Thể Dụng. Sau xem ứng quái cũng là Dụng, tức là hợp cả nội quái và ngoại quái Thể Dụng. Như vậy không phải chỉ có một Thể và một Dụng mà thôi, có thể nói một Thể có đến trăm Dụng vậy.

Sinh khắc, tức là chia Thể Dụng mà luận, ấy là luận sinh khắc, sinh Thể thì tốt, khắc Thể thì xấu, tỵ hòa thì tốt, khỏi phải bàn luận đến.

Nhiều quẻ sinh Thể thì rất tốt, nhiều quẻ khắc Thể lại rất xấu. Tuy vậy, nếu như có một quẻ sinh Thể, mà quẻ này lại bị các quẻ khác khắc nó thì có thể giảm bớt sự tốt đi.

Lại như có quẻ khắc Thể, mà quẻ lại bị các quẻ khác khắc nó thì có thể cứu vớt được sự cùng quẫn. Nếu có quẻ khác sinh nó thì tốt, mà khắc nó thì xấu. Ấy là cách sinh khắc của Thể Dụng vậy.

Tuy nhiên, lệ sinh khắc cũng có khi khỏi bàn đến Thể Dụng. Thí dụ:

Chiêm Thiên thời như quẻ Chấn tức là sấm; được quẻ Tốn tức là gió; gặp Khảm thì mưa; gặp Ly thì nắng. Đó lý tự nhiên, mà lại cũng chưa hẳn như vậy.

Nếu thấy trong quái có nhiều Càn hay Đoài thì dù có Chấn cũng không có sấm; và có Tốn cũng không có gió. Ấy là cũng ẩn ý của ngoại quái ứng, cũng như chiêm Mai, thấy thiếu nữ bẻ trộm bông; chiêm Mẫu đơn thấy ngựa dẫm hủy; thấy Địa Phong Thăng có triệu ăn uống.

Như vậy, nếu không có triệu Ngoại ứng thì làm sao quyết đoán được như vậy.

Thể Dụng Loại

Tâm Dịch dựa vào chư vật mà dùng lấy Thể làm chủ; tuy vậy người chỉ biết có một Thể, một Dụng mà không biết có một Thể mà cả trăm Dụng biến thông ra. Cùng một Thể mà biến thông; toàn quái là nội quái. Nội cũng chẳng phải là một Dụng mà Hổ Biến ra cũng là Dụng. Tam yếu và Thập ứng quái gọi là ngoại quái. Ngoại quái cũng chẳng đồng nhất, chẳng phải là không phải là Dụng vậy; ngụ vật học mà đạt thấu Thể Dụng rất là chí thuật, hiểu được Thập ứng cũng rất hiếm có, sau cùng Tam yếu lão thông, ấy mới là toàn thuật.

Chớ bảo Thể Dụng là Thể Dụng, Tam yếu là Tam yếu, chỉ lấy Thể Dụng mà đoán cát hung, lấy Tam yếu mà triệu cát hung. Mấy ai biết được đến chỗ cùng cực của Tam yếu, Thập ứng, Thể Dụng.

Than ôi! Thể Dụng không thể không có Tam yếu, Thập ứng không thể không có Thể Dụng. Thể Dụng, Tam yếu, Thập ứng lý dĩ nhiên không cách gian nhau được. Như vậy mới lột được tinh vi của khoa chiêm bốc của dịch vậy.

Lại như nhiều quẻ Càn Đoài thì Tốn không có gió; Khôn cấn nhiều thì Khảm khó mưa; Khảm nhiều thì Ly khó tạnh; vì Càn Đoài là Kim, khắc Chấn Tốn Mộc; Khôn cấn thổ khắc Khảm Thủy; Khảm Thủy khắc Ly hỏa. Như vậy phải nên thạo biến thông mới suy nghiệm được.

Lại như chiêm ẩm thực, có Khảm tất có rượu, có Đoài chắc có ăn; nếu gặp phải Khôn Cấn, thì dù có Khảm cũng không có rượu; nếu gặp phải Ly, có Đoài cũng chẳng có ăn. Như trên chỉ nêu hai thí dụ để suy nghiệm, để hiểu thêm sinh khắc của Tâm Dịch vậy.

Suy Vượng Luận

Đã tường sinh khắc, lại phải biết vượng suy.

Vượng là mùa Xuân thì Chấn Tốn Mộc; mùa Hạ thì Ly Hỏa; mùa Thu thì Càn Đoài; mùa Đông thì Khảm Thủy, bốn tháng tứ quý là Khôn Cấn Thổ.

Suy là mùa Xuân Khôn cấn; mùa Hạ Càn Đoài; mùa Thu thì Chấn Tốn; mùa Đông thì thì Ly, bốn tháng tứ quý là khảm.

Phàm chiêm quẻ, Thể quái nên khí thịnh vượng, khí đã vượng mà phùng sinh thì tốt, gặp trùng khắc thì xấu.

Nếu thể suy mà phùng khắc, lại càng rất xấu, còn Thể suy mà có quẻ sinh Thể, thì sự suy có thể giảm bớt xấu.

Đại để Thể quái cần phải vượng, khí quái của quẻ sinh Thể cũng phải vượng; quẻ khắc Thể phải nên khí suy.

Ấy là luận thịnh suy khí của Tâm Dịch

Nội Ngoại Quái Luận

Phàm phép chiêm bốc, Thể Dụng là nội quái, tất cả Ứng quái gọi là ngoại quái, đó là lệ thuật chiêm bốc, các ứng quái với Tam yếu và Thập ứng, đó là hợp chung cả nội ngoại quái mà đoán. Nếu chẳng biết hợp nội ngoại quái mà đoán cứ bảo Thể dụng là Thể Dụng, Tam yếu, Thập ứng là Tam Yếu, Thập ứng thì chẳng thể nào thấy hiệu nghiệm được. Song le Thập ứng ít kẻ biết cho tường tận, như đã nói ở mục Ảo Luận trước; vàng bạc là của báu, Tam yếu thì cho là tốt. Nhưng ví bằng, thể là Chấn Tốn thuộc Mộc, tất nhiên Kim khắc Mộc, thì trái lại là xấu. Binh đao đời cho là hung, Tam yếu cũng cho là hung, ví bằng Khảm là Thể thuộc thủy mà gặp Kim lại trở thành tốt.

Lại như chiêm sản (sinh đẻ) thấy nam tử cho là có triệu tốt sinh con, nhưng giả thử Khảm là Thể, thiếu nam là Cấn (Thổ), tức là Thổ khắc Thủy, thì trái lại sự sinh đẻ chẳng được tốt.

Lại như chiêm bịnh, thấy áo quan thì cho là chết, nhưng ngược lại nếu Ly là Thể thì Mộc sinh Hỏa, đâu có chết.

Biết như vậy tức là nội quái cần phải có ngoại quái và ngoại quái phải có nội quái. Nghề chiêm bốc, cho được linh nghiệm tất thế nào cũng phải hợp nội và ngoại quái mà đoán mới thật là phải đạo vậy.

Động Tinh Luận

Phàm chiêm bốc, tuy đã thấu cái cơ trọng yếu của Động Tịnh. Tuy vậy còn có cái định lý và sự biến của sự việc. Dương động mà âm tịnh, một động một tịnh, cái lý nó phát xuất từ cái tịnh ấy qua cái động kia. Một tịnh thì trăm động, là do cái biến đổi của sự việc ấy. Các sự việc ở trong thiên hạ, nó rối rắm giao động, mỗi mỗi đều có sự đoán. Ta chỉ lấy một tịnh mà liệu lượng thôi, không động thì không chiêm. Không có cớ tất không bói. Phép chiêm bốc phải xét rõ từng sự việc của quần vật, cái động của sự vật mà xấu, thì cái triệu của quẻ cũng xấu, cái động của sự vật mà tốt, thì cái triệu của quẻ cũng tốt.

Như chỗ huyên náo là chợ búa, quán đình, nhân vật lộn xộn, quần vật đầy dẫy trước mắt, sự gì nương theo vật nấy thì cũng ứng ngay vào quẻ, sự tốt hay xấu cũng vạy, phải suy vào một cái lý nào để nó hợp với sự vật ấy.

Vị chưng, ở trong cái quần động ấy, hoặc là tự thấy bởi tai mắt của ta, hoặc ta đã thấy từ trước, hoặc quần sự nó thể hiện rõ ràng, hoặc do chính ta tưởng niệm ra, ta lấy đó làm sở dụng để chiêm bốc, Ví như:

Cầu danh cũng do ở trong cái quần động, hoặc ta thấy quan phủ, hoặc có văn thư bào hốt (áo mão đồ các quan mặc đi triều), vật lễ nghi thì ứng sự có lợi về quan sự.

Cầu tài lợi thì gặp được người cự thương, phú gia (nhà buôn to, nhà giàu có), hoặc thấy vật báu hóa, đoán quyết được ngay ứng tài lợi.

Lại như chiêm quan tụng rủi gặp phải đồ vật như roi vọt, xiềng xích ắt có sự kiện không tốt; chiêm bịnh mà không gặp vật ai, ma (áo tang), quan quách thì bịnh xoàng thôi không đáng ngại. Xem như vậy mới biết sự sự tương quan, vật vật tương ứng, đó là cái thiết yếu để chiêm bốc vậy.

Đến như ngồi thì ứng chậm; đi thì ứng mau; chạy lại càng ứng mau hơn nữa; nằm thì ứng chậm hơn; như thế tất phải xét nguyên nhân của sự động.

Tâm ta vốn tịnh, người tới coi quẻ, do cái ý niệm của họ ứng vào tức là động, ta dùng cái tịnh của ta, mà liệu lường cái động của người, ta dùng cái niệm của ta, mà suy cái nghiệm của người, cái tâm thành thực thì quỷ thần hay thấu, biết như vậy rồi khá biết cái trọng yếu của động và tịnh.

Hướng Bối Luận

Phàm chiêm quái cho ứng nghiệm, cần phải xét đến Hướng và Bối ứng của các sự vật. Hướng là quay mặt hướng trở lại. Bối là cái ứng của sự vật quay lưng lại mà đi như:

Con chim quạ báo tai ương, nếu từ xa bay lại tức họa sắp tới, nếu nó bay trở đi là họa đã hết rồi.

Con chim khách báo hỷ, nó từ xa bay tới, ắt có việc vui mừng sắp tới, nếu nó bay trở đi, sự vui mừng đã qua rồi.

Cho đến các ngoại ứng khác cũng đồng đều như vậy cả. Cho nên quái khắc Thể quái nếu thấy khí vật hướng trở lại thì họa ắt đến, còn thấy khí vật quay lưng trở đi là họa đã qua rồi. Còn như quái sinh Thể quái, mà thấy khí vật hướng trở lại ắt sự tốt lành sẽ tới, còn thấy khí vật quay lưng lại mà đi, sự tốt lành đã qua rồi.

Các triệu chứng khác cũng đều chung một lý như vậy hết. Ấy gọi là chiêm Hướng Bối theo cái lý của Dịch.

Tịnh Chiêm

Phàm chiêm quái, ở chốn thanh tịnh vắng vẻ, như ở trong tịnh thất, ta không nghe và cũng không thấy sự động của khí vật bên ngoài, những biến của ngoại cảnh tức là không có ngoại quái, ta khỏi phải xét đến ngoại quái, mà chỉ thấy toàn quái, năm, tháng, ngày hợp với ngũ hành suy vượng cùng với thể Dụng mà suy đoán.

Quan Vật Động Huyền Ca

Nghĩa là xem xét rõ ràng thông suốt sự sâu kín nhiệm mầu của sự vật, bài ca này phần nhiều đoán cái khí tượng của nhà ở.

Xưa người Ngưu Tư, vào nhà người có thể biết được cái triệu tốt hay xấu của chủ nhà; nhờ cái thuật đó mà biết cái thế hưng suy, cái điềm tốt lành, yêu quái tà nghiệt ở trong gia môn, nhận biết được để làm gương suy nghiệm, không nhận biết được đành chịu mờ ám.

Cho nên bài ca này là một ảo thuật rất linh ứng, cũng đều do cái lý mà ra, chớ nên cho là thiển cận. Sự việc trong thế gian không ngòai cái số, cái lý, gặp việc cát hung lẫn hối đều có thể biết trước được cái họa phước. Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sinh khắc làm chủ; năm sắc: Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng, Đen phân biệt cái màu sắc rõ ràng, sự tốt xấu nhà của người đều thấy được. Chỉ hướng vào lời phán đoán huyền trung.

Vào nhà nhận xét được bằng nghe thấy, mà biết hưng suy. Về nhà nhận thấy cái xuân khí, thì trong gia trạch sinh hòa khí, bằng như cái vẻ lạnh lẽo, linh lạc giống cảnh mùa Thu, thì gia đình sẽ suy vi. Tự nhiên nhận thấy mùi hương hơm đầm ấm, nhà sẽ đầy phước đức. Ngửi cái mùi tanh hôi, ô uế, tựa như heo, mèo, chó, lợn là chủ sự bịnh tật khốn cùng. Trai tráng, gái sức chỉnh tề, gia phong thịnh. Người nhà mặt bẩn đầu bù, định thấy ưu sầu.

Quỷ khóc, phụ thân đầy vẻ lo âu buồn bả, họa hại thiểu phước. Lão nhân vô cớ, khóc lệ tràn đôi mắt, ắt thấy ngay sầu bi. Trước nhà vách đổ nát, gia đạo tiêu kiệt. Suối lạch hướng trông vào trước cửa, tài bạch nhiều phần sa sút. Hốt nhiên trên mái nhà mọc nhiều cây cỏ, gia nhân an bảo nhờ âm đức. Môn hộ sáng sủa thanh tịnh, dứt sạch trần ai ắt hẳn có cao tài. Ngẫu nhiên, trước cửa xem tựa buồn thảm xui xẻo, chơi vơi, tất nô khí chủ. Thường thường tan vỡ điêu tàn non biển, đoán gia cư bất lợi. Đào hoa tươi tốt, trước nhà thấm nhuộm phong tình. Trước nhà, sau nhà trồng cây vông, chủ nhân ly biệt. Bên giếng trồng cây lê là hiệu ly hương. Tự đường thần vị thình lình bốc cháy, đề phòng hỏa ách. Trước nhà, ngói sụp đổ, chủ sự sầu bi. Ví như nhiều hang lỗ đầy mảnh bát bể, thấy cảnh bần cùng. Ban ngày không nên để đèn giữa nhà, sự chết chóc tiếp nối, công nhiên rõ ràng chuột viếng giữa trưa, chẳng thoát khỏi hao tài. Sáng chiều, gà mái gáy, âm thịnh nhà tan nát. Chó sủa tru giữa nhà, thân quyến ắt tai ách. Sáng sớm chim khách kêu liên tiếp, người đi xa sắp về. Rắn, trăn vào nhà, ngộ bịnh thấy yêu tà. Bầy chim sẻ tranh đuổi nhau cắn nhau, nhà đương thịnh ắt thấy khẩu thiệt lôi thôi. Chim cú, chim chài kêu trước cửa, nhân khảu bị liên tai. Vào nhà thấy bầy dê, gia chủ bịnh ôn hoàng. Ghe thuyền để trên cạn, tuy ổn định mà thành yểm trệ. Bóng cây nhà người vượt qua vách nhà ta, đa đắc hoạnh tài. Trước thềm, gạch đá vỡ tan mọi sự đều suy diệt. Vào nhà thấy trà quả, ứng tươi tốt, được nhiều quà biếu tặng. Ngày ba bữa khói lửa đều đều là nhà no ấm. Liên miên ngủ ngày chẳng phải thời, là triệu nhân tán tài ly.

Lý tại tâm ta, đạo thánh hiền truyền để dẫn đạo phát xuất ở Tiên thiên, sâu xa thầm kín, thấu u huyền.

Bài ca Động huyền với Thiên linh ứng trước, tuy là phương pháp khác nhau, nhưng cùng một mục đích, Thiên linh ứng kia phần nhiều thuộc về khoa chiêm bốc, vì sự chiêm bốc lại tùy thuộc theo sở xuất, sở kiên cùng với triệu khắc ứng. Còn như bài ca Động huyền này thì không liên hệ gì mấy với sự chiêm bốc, chỉ thuận nhịp mà ghi chép phụ thêm. Người nào có việc gì, tất nhiên có lý nấy, vì có nhiều ngụ ý để quan sát mọi sự vật xảy ra, lại để cảnh tỉnh tránh sự dữ, hoặc để chuyển rủi thành may, vô tình chẳng thấu hiểu nổi căn duyên của định mạng; khiến ta thấy chuyện thiện ác không tránh khỏi, âu cũng để làm gương soi chung vậy.

Phong Thủy Liên Hoa tổng hợp và biên soạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *